Lịch sử hoạt động HMS_Indefatigable_(1909)

Trước chiến tranh

Indefatigable được đặt lườn tại Xưởng tàu Devonport tại Plymouth vào ngày 23 tháng 2 năm 1909. Nó được hạ thủy vào ngày 28 tháng 10 năm 1909 và được hoàn tất vào ngày 24 tháng 2 năm 1911.[14] Khi được đưa ra hoạt động, thoạt tiên Indefatigable được phân về Hải đội Tuần dương 1 thuộc Hạm đội Nhà, vốn được đổi tên thành Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1 vào tháng 1 năm 1913. Nó được chuyển sang Địa Trung Hải vào tháng 12 năm 1913, nơi nó gia nhập Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 2 thuộc Hạm đội Địa Trung Hải.[15]

Săn đuổi Goeben và Breslau

Indefatigable, có tàu chiến-tuần dương IndomitableInflexible tháp tùng và dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Archibald Berkeley Milne, đã đụng độ với tàu chiến-tuần dương Goebentàu tuần dương hạng nhẹ Breslau vào sáng ngày 4 tháng 8 năm 1914, vốn đang hướng về phía Đông sau một đợt bắn phá qua loa cảng PhilippevilleAlgérie thuộc Pháp; nhưng khi đó Anh chưa chính thức ở trong tình trạng chiến tranh với Đức, nên Milne chỉ dõi theo các con tàu Đức lúc chúng quay trở lại Messina để tiếp than. Cả ba chiếc tàu chiến-tuần dương đều gặp trục trặc về nồi hơi, và Goeben cùng Breslau đã có thể thoát được sự bám đuổi và đến được Messina vào sáng ngày 5 tháng 8. Vào lúc này chiến tranh đã được tuyên bố sau khi Đức xâm chiếm Bỉ, nhưng một mệnh lệnh của Bộ Hải quân chỉ thị phải tôn trọng sự trung lập của Ý và ở bên ngoài giới hạn sáu dặm (10 km) từ bờ biển Ý đã loại trừ việc tiến vào lối băng qua eo biển Messina, nơi chúng có thể trực tiếp quan sát cảng. Vì vậy Milne bố trí Inflexible và Indefatigable ở lối ra vào phía Bắc của eo biển Messina, nghĩ rằng lực lượng Đức sẽ thoát ra về phía Tây nơi chúng có thể tấn công các tàu vận chuyển binh lính Pháp, chỉ đặt tàu tuần dương hạng nhẹ Gloucester canh chừng ở lối ra vào phía Nam; đồng thời gửi Indomitable đi tiếp than tại Bizerte, nơi nó có thể bố trí tốt hơn nhằm đáp trả nếu như các tàu Đức tiến vào khu vực Tây Địa Trung Hải.[16]

Lực lượng Đức khởi hành từ Messina vào ngày 6 tháng 8 hướng sang phía Đông về phía Constantinopolis, có Gloucester bám theo. Vẫn dự đoán rằng Chuẩn Đô đốc Wilhelm Souchon sẽ quay mũi sang phía Tây, Milne giữ các tàu chiến-tuần dương ở lại Malta cho đến sau nữa đêm ngày 8 tháng 8, khi ông lên đường hướng đến mũi Matapan, nơi Goeben bị phát hiện tám giờ trước đó, với một tốc độ nhàn nhã 12 hải lý trên giờ (22 km/h). Đến 14 giờ 30 phút,[Ghi chú 2] ông nhận được một thông báo sai lầm từ Bộ Hải quân rằng Anh đã trong tình trạng chiến tranh với Áo-Hung, thực ra chiến tranh chỉ được chính thức tuyên bố vào ngày 12 tháng 8 và chỉ thị bị hủy bỏ bốn giờ sau đó, nhưng Milne vẫn giữ lại mệnh lệnh canh chừng biển Adriatic đề phòng lực lượng Áo thoát ra hơn là truy tìm Goeben. Cuối cùng vào ngày 9 tháng 8, Milne nhận được mệnh lệnh rõ ràng "Truy đuổi Goeben đã vượt qua mũi Matapan vào ngày 7 tháng 8 theo hướng Đông Bắc."[17] Milne vẫn không tin là Souchon hướng đến eo biển Dardanelles, nên ông kiên quyết canh phòng lối ra vào biển Aegean, không biết rằng Goeben không có ý định vượt ra ngoài.[17]

Ngày 3 tháng 11 năm 1914, Bộ trưởng Hải quân Winston Churchill ra lệnh cho cuộc tấn công đầu tiên của Anh vào Dardanelles sau khi xung đột nổ ra giữa Đế quốc OttomanĐế quốc Nga. Cuộc tấn công được tiến hành bởi Indomitable và Indefatigable cùng các thiết giáp hạm tiền-dreadnought Pháp SuffrenVérité, với mục đích thăm dò các công sự phòng thủ và các biện pháp đáp trả của Thổ Nhĩ Kỳ. Kết quả tỏ ra khá thuyết phục; trong vòng 20 phút bắn phá, một quả đạn pháo đã đánh trúng hầm đạn của pháo đài Sedd el Bahr tại mũi bán đảo Gallipoli, loại khỏi vòng chiến (nhưng không phá hủy) 10 khẩu pháo và khiến 86 binh lính Thổ Nhĩ Kỳ thiệt mạng. Kết quả đáng kể nhất là thu hút sự chú ý của Thổ Nhĩ Kỳ vào việc tăng cường phòng thủ và mở rộng các bãi mìn.[18] Cuộc tấn công này thực sự đã diễn ra trước khi có lời tuyên chiến chính thức từ phía Anh đối với Đế quốc Ottoman, vốn chỉ xảy ra vào ngày 6 tháng 11. Indefatigable tiếp tục ở lại Địa Trung Hải cho đến khi nó được Inflexible thay phiên vào ngày 24 tháng 1 năm 1915, và đi đến Malta để tái trang bị. Sau khi hoàn tất, nó lên đường đi Anh Quốc vào ngày 14 tháng 2, nơi nó gia nhập Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 2.[19] Con tàu tiến hành các cuộc tuần tra bình yên tại Bắc Hải trong một năm rưỡi tiếp theo sau, tạm thời đảm nhiệm vai trò soái hạm Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 2 từ tháng 4 đến tháng 5 năm 1916 khi chiếc tàu chị em HMAS Australia phải sửa chữa do va chạm vào ngày 22 tháng 4 với một tàu chị em khác là New Zealand.[19]

Trận Jutland

Bài chi tiết: Trận Jutland
Sơ đồ trận Jutland mô tả các cuộc di chuyển chủ yếu

Vào ngày 31 tháng 5 năm 1916, Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 2 bao gồm Indefatigable và New Zealand (soái hạm của Chuẩn Đô đốc William Christopher Pakenham), do Australia còn đang được sửa chữa sau vụ va chạm với New Zealand.[20] Chúng được phân về Hạm đội Tàu chiến-Tuần dương dưới quyền Đô đốc Beatty để đánh chặn một cuộc tiến quân của Hạm đội Biển khơi Đức vào Bắc Hải. Người Anh đã có thể giải mã các thông điệp vô tuyến của Đức, và đã rời căn cứ trước khi Hạm đội Đức ra khơi. Các tàu chiến-tuần dương của Hipper đã nhìn thấy Hải đội Tàu chiến-Tuần dương Anh về phía Tây lúc 15 giờ 20 phút, nhưng các con tàu của Beaty đã không nhìn thấy đối thủ ở phía Đông cho đến 15 giờ 30 phút. Hầu như ngay sau đó, lúc 15 giờ 32 phút, Beaty ra lệnh đổi hướng về phía Đông Đông Nam chắn ngang đường rút lui của Hạm đội Đức và truyền lệnh sẵn sàng tác chiến. Ông cũng ra lệnh cho Hải đội 2, vốn đang ở vị trí dẫn đầu, lui xuống phía sau Hải đội 1. Hipper ra lệnh cho các con tàu dưới quyền bẻ lái sang mạn phải, tách xa lực lượng Anh, hầu như 180°, theo hướng Đông Nam, và giảm tốc độ xuống còn 18 hải lý trên giờ (33 km/h; 21 mph), cho phép ba tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc Đội tuần tiễu 2 có thể bắt kịp. Với cú đổi hướng này, Hipper quay trở lại thành phần chủ lực của Hạm đội Biển khơi, lúc đó còn cách 60 dặm (97 km) về phía sau. Vào khoảng thời gian này, Beatty đổi hướng về phía Đông, vì rõ ràng là ông ở quá xa về phía Bắc để có thể cắt ngang hướng đi của Hipper.[21]

Đến đây bắt đầu một quá trình được gọi là đợt "Chạy về phía Nam" khi Beatty đổi hướng sang Đông Đông Nam lúc 15 giờ 45 phút, song song với hướng đi của Hipper, giờ đây ở khoảng cách dưới 18.000 thước Anh (16.000 m). Phía Đức khai hỏa trước tiên lúc 15 giờ 48 phút, và được phía Anh đáp trả. Các con tàu Anh vẫn đang còn trong quá trình đổi hướng, chỉ có hai chiếc dẫn đầu đội hình là LionPrincess Royal ổn định được hướng đi khi các tàu Đức nổ súng. Đội hình phía Anh được sắp theo hình thang lệch sang phải với Indefatigable ở phía cuối và xa nhất về phía Tây, trong khi New Zealand dẫn trước nó và hơi lệch về phía Đông. Hỏa lực của phía Đức khá chính xác ngay từ đầu, còn phía Anh đã ước lượng quá xa khoảng cách khi các con tàu Đức lẫn khuất trong làn sương mù. Indefatigable nhắm vào Von der Tann còn New Zealand nhắm vào Moltke trong khi bản thân nó không bị đối địch. Đến 15 giờ 54 phút, khoảng cách giữa hai bên được rút ngắn xuống còn 12.900 thước Anh (11.800 m), và Beatty ra lệnh bẻ lái 2 point (22,5°) sang mạn phải để gia tăng khoảng cách giữa hai bên lúc 15 giờ 57 phút.

Indefatigable đang chìm ở phía xa trong Trận Jutland

Lúc khoảng 16 giờ 00, Indefatigable bị Von der Tann bắn trúng hai hoặc ba phát đạn pháo chung quanh tháp pháo đuôi, và tháp pháo hầu như bị lật tung sang mạn phải; con tàu bị tách ra khỏi đội hình và bị chìm phần đuôi và nghiêng sang mạn trái. Nó bị bắn trúng tiếp hai phát nữa trong loạt đạn pháo tiếp theo, một trúng sàn phía trước và một vào tháp pháo phía trước, và nổ tung lúc 16 giờ 03 phút khi hầm đạn phát nổ. Khói và lửa bốc lên từ phần trước của con tàu, và những mảnh lớn bị tung lên không trung đến 200 foot (61,0 m).[22] Nguyên nhân có thể đưa đến tổn thất nó là do vụ nổ sâu bên dưới hầm đạn tháp pháo 'X' làm thủng đáy tàu và làm hỏng trục điều khiển giữa động cơ bẻ lái và bánh lái, được tiếp nối bằng vụ nổ hầm đạn phía trước trong loạt đạn pháo thứ hai.[23] Von der Tann chỉ bắn có 52 quả đạn pháo 28 cm (11 in) nhắm vào Indefatigable trước khi mục tiêu nổ tung. Trong số 1.017 thành viên thủy thủ đoàn chỉ có ba người sống sót. Lúc còn ở dưới nước, hai người sống sót đã trông thấy Thuyền trưởng C. F. Sowerby, vốn bị thương nặng và qua đời trước khi được cứu. Hai thủy thủ Elliott và Falmer được tàu phóng lôi Đức S68 cứu vớt.[24] Một người thứ ba, Bowyer, cũng được một tàu Đức khác cứu vớt nhưng tên con tàu đã không được ghi chép lại.[25]